Theo thống kê của Bộ LĐ-TB&XH, chỉ tính riêng trong 6
tháng đầu năm 2015, trên cả nước có tới 3.416 vụ tai nạn lao động (TNLĐ) làm
3.499 người bị nạn. Cụ thể: Số vụ TNLĐ chết người là 257 vụ, số vụ TNLĐ có từ
hai người bị nạn trở lên: 34 vụ, số người chết: 277 người, số người bị thương
nặng: 680 người, nạn nhân là lao động nữ: 1.074 người. Trong đó có 10 địa
phương “cộm cán” xảy ra nhiều nhất TNLĐ dẫn đến chết người (chiếm 42,96% tổng
số người chết do TNLĐ) bao gồm: TP Hà Nội, Bình Dương, Hải Dương, Quảng Ninh,
Đồng Nai, TP.HCM, Quảng Bình, Long An, Bình Định, Hà Nam.
Cứ ngỡ công nhân các mỏ than mới là những đối tượng gặp
nhiều nguy hiểm nhất, dễ bị chôn vùi khi sập hầm lò và khả năng sống sót là rất
hiếm. Song, thống kê của Bộ LĐ-TB&XH cho thấy, tỷ lệ số vụ TNLĐ của ngành
xây dựng lại mới “chiếm ưu thế”, với hơn 30% tổng số vụ TNLĐ. Vẫn biết, ngành
xây dựng chiếm tỷ trọng lớn trong thu nhập kinh tế quốc dân, lực lượng lao động
chiếm khoảng 10%. Tuy nhiên, đây cũng là ngành có yếu tố nguy hiểm, nặng nhọc,
độc hại, cần thiết đảm bảo chặt chẽ quy trình an toàn lao động theo các quy
định của pháp luật.
Nguyên nhân của đa số các vụ TNLĐ được cho là tập trung ở
mấy vấn đề: lực lượng lao động của nhiều ngành chủ yếu là lao động phổ thông ở
các vùng quê lên thành phố kiếm sống, làm việc theo kinh nghiệm, thiếu kiến
thức và ý thức an toàn lao động. Chính vì ý thức tự bảo vệ mình chưa tốt là
nguyên nhân chính dẫn đến những vụ tai nạn đau lòng. Một nguyên nhân khác cũng
được cơ quan chức năng chỉ ra trong hầu hết các vụ TNLĐ là chủ sử dụng lao động
đã xem nhẹ, hay nói một cách gay gắt hơn là coi thường tính mạng người lao
động, không trang bị bảo hộ lao động cho công nhân viên, không đảm bảo kiểm tra
định kỳ các thông số độc, hại, nguy hiểm nơi làm việc, để tiết giảm chi phí.
Nghiên cứu của giới khoa học chuyên ngành chỉ ra rằng, trong
quá trình lao động có thể tồn tại một hoặc nhiều yếu tố nguy hiểm, có hại. Do
vậy, nếu không được phòng ngừa, ngăn chặn, chúng có thể tác động vào con người
gây chấn thương, gây bệnh nghề nghiệp, làm giảm sút, làm mất khả năng lao động,
thậm chí dẫn đến tử vong. Vì thế, việc chăm lo cải thiện điều kiện lao động an
toàn là một trong những nhiệm vụ trọng yếu để phát triển sản xuất, tăng năng
suất lao động.
Đó chính là lý do mà Đảng, Nhà nước luôn quan tâm đến công
tác bảo hộ lao động, nhằm đảm bảo an toàn thân thể người lao động, hạn chế đến
mức thấp nhất, hoặc không để xảy ra tai nạn trong lao động. Từ đó đảm bảo sức
khỏe cho người lao động, không bị mắc bệnh nghề nghiệp hoặc các bệnh tật khác
do điều kiện lao động không tốt gây ra. Một đất nước có tỷ lệ TNLĐ thấp, người
lao động khỏe mạnh, không mắc bệnh nghề nghiệp và một xã hội luôn luôn coi con
người là vốn quý nhất, người lao động luôn được bảo vệ sẽ là một đất nước phát
triển cường thịnh và là một xã hội văn minh.
Chủ trương đường lối đúng đắn đó của Đảng, Nhà nước đã được
cụ thể hóa bằng những quy định trong Luật Lao động và các văn bản dưới luật.
Theo đó, mọi tổ chức, cá nhân sử dụng lao động (chủ sử dụng lao động) và người
lao động, kể cả tổ chức, cá nhân nước ngoài sử dụng lao động hoặc lao động trên
lãnh thổ Việt Nam đều phải thực hiện việc bảo hộ lao động theo quy định. Các cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội có trách nhiệm phối hợp chăm lo, bảo vệ quyền của
người lao động làm việc trong điều kiện an toàn, vệ sinh. Mọi người lao động có
quyền yêu cầu và có nghĩa vụ thực hiện những quy định về an toàn lao động.
Người sử dụng lao động có nghĩa vụ bảo đảm điều kiện làm việc an toàn của người
lao động.
Luật pháp cũng quy định rõ: Việc sản xuất, sử dụng, bảo
quản, vận chuyển các loại máy, thiết bị, vật tư, năng lượng, điện, hoá chất,
thuốc trừ sâu, diệt cỏ, diệt chuột, phân bón; việc thay đổi công nghệ, nhập
khẩu công nghệ mới phải được thực hiện theo tiêu chuẩn an toàn lao động, vệ
sinh lao động. Kiểm tra định kỳ để đảm bảo nơi làm việc đạt các thông số cho
cho phép về không gian, độ thoáng, độ sáng, tiêu chuẩn vệ sinh, hơi, khí độc,
bụi, phóng xạ, điện từ trường, nóng, ẩm, ồn, rung và các yếu tố có hại khác.
Trong trường hợp nơi làm việc, máy, thiết bị có nguy cơ gây TNLĐ, bệnh nghề
nghiệp, phải thực hiện ngay những biện pháp khắc phục nguy cơ đó hoặc phải
ngừng hoạt động.
Không chỉ riêng về mặt lý luận, ngay thực tiễn cũng đã chỉ
ra rằng, bảo hộ lao động là chăm lo đời sống, hạnh phúc của người lao động, là
yêu cầu thiết thực của các hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần vào công
cuộc xây dựng xã hội ngày càng phồn vinh và phát triển. TNLĐ không xảy ra thì
Nhà nước và xã hội sẽ giảm bớt được những tổn thất trong việc khắc phục hậu quả
và tập trung đầu tư cho các công trình phúc lợi công cộng. Nếu người lao động
được bảo vệ tốt sẽ an tâm, phấn khởi sản xuất, năng suất lao động cũng theo đó
tăng lên, tạo ra nhiều thặng dư cho xã hội.
“Đảm
bảo sức khỏe cho người lao động, không bị mắc bệnh nghề nghiệp hoặc các bệnh
tật khác do điều kiện lao động không tốt gây ra. Một đất nước có tỷ lệ tai nạn
lao động thấp, người lao động khỏe mạnh, không mắc bệnh nghề nghiệp và một xã
hội luôn luôn coi con người là vốn quý nhất, người lao động luôn được bảo vệ sẽ
là một đất nước phát triển cường thịnh và là một xã hội văn minh”
Lê
Anh Đức
(Nguồn
tin: Báo Đại Đoàn Kết)