1.Mở đầu
Quá trình phát triển mạnh
mẽ về mọi mặt, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư của đất
nước trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa dẫn đến sự hình thành các tập đoàn
kinh tế đa ngành trong nước và sự đầu tư ngành càng tăng, toàn diện của các tập
đoàn đa quốc gia nước ngoài. Sự phát triển trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
cũng không nằm ngoài dòng chảy đó và tất yếu là nhu cầu về diện tích xây dựng
cho mục đích ở, cho thuê, văn phòng, thương mại và dịch vụ ngày càng tăng cả về
số lượng lẫn chất lượng. Kinh nghiệm xây dựng của các quốc gia trên thế giới đã
chứng tỏ rằng với việc gia tăng nhanh chóng của giá trị đất xây dựng thì phương
án hiệu quả nhất dưới góc độ kinh tế của đầu tư xây dựng là chiều cao công
trình phải lớn hơn 30÷50 tầng. Ý tưởng xây dựng nhà siêu cao tầng xuất phát từ
tư duy về một siêu đô thị phát triển với những định hướng giá trị và đẳng cấp về
kiến trúc – xây dựng, trong đó có lợi ích rõ ràng của nhà đầu tư hoặc từ nguyên
nhân liên quan đến giá trị quá cao của khu đất xây dựng.
Hiện nay chưa có một định nghĩa hoặc một tiêu chí rõ ràng về nhà siêu cao tầng.
Theo hội thảo Quốc tế lần thứ IV về nhà cao tầng do Hội nhà cao tầng của Liên hợp
quốc tổ chức tại Hồng Công năm 1990, nhà cao tầng được chia ra làm 4 loại: loại
1 từ 9 – 16 tầng; loại 2 tùa 17 – 25 tầng; loại 3 từ 26 đến 40 tầng và loại 4
trên 40 tầng [1]. Cách phân loại này cũng hợp với quan niệm về nhà cao tầng của
Việt Nam.
Như vậy có thể hiểu một cách tương đối rằng, nhà siêu cao tầng hay một số tài
liệu còn gọi là nhà chọc trời là những công trình có số tầng không nhỏ hơn 40.
Vật liệu cơ bản được sử
dụng để xây dựng khung chịu lực của nhà siêu cao tầng là bê tông toàn khối. Chí
ít cho đến nay, rất nhiều nhà chọc trời trên thế giới đã được xây dựng trên nền
tảng kết cấu khung chịu lực bê tông toàn khối, trong đó có Burj-Dubai Tower
(Dubai - Ả Rập, 828m, 164 tầng); Petronas Twin Tower (Mãlaixia, 432m, 88 tầng);
Bank of China Tower (Hồng Kông, 369m, 70 tầng); Jin Mao Building (Thượng Hải,
421m, 88 tầng); Texas Commerce Tower (Mỹ, 305m, 75 tầng); Federasia Tower –
Moscow City (LB Nga, 506m, 94 tầng) và nhiều công trình khác.
Cần nhận thấy rằng, sản
lượng bê tông toàn khối hàng năm trên thế giới sử dụng cho các kết cấu nhà và
công trình vượt quá 1,5 tỷ m3, tiêu tốn hơn một nửa
khối lượng xi măng được sản xuất. Ở các nước phát triển (Anh, Mỹ, Nhật, Đức…)
bê tông toàn khối chiếm trên 75% khối lượng bê tông sử dụng cho xây dựng. Còn ở
LB Nga bê tông toàn khối hàng năm ước khoảng trên 100 triệu m3, chiếm khoảng
35% khối lượng vật liệu xây dựng được sử dụng [6].
Mới đây, ở Việt Nam đã
có hai công trình siêu cao tầng xây dựng xong và đi vào sử dụng, đó là Bitexco
Financial Tower tại TP Hồ Chí Minh (262m, 68 tầng) và Keangnam HaNoi Landmark
Tower (336m, 48 và 70 tầng). Công trình Lotte Center HaNoi (68 tầng) đang thi
công phần móng và tầng hầm. Nhiều dự án nhà siêu cao tầng đang trong giai đoạn
thiết kế, lập dự án và nghiên cứu đầu tư như Vietinbank
Tower (68 tầng), Petro VietNam Twin Tower (110 tầng), Posco Vinatex
Tower (68 tầng), SaiGon
Centre Tower
(88 tầng) và nhiều dự án khác. Những sự kiện trên cho thấy việc đầu tư xây dựng
nhà siêu cao tầng ở nước ta là một xu hướng tất yếu và đã có những bước phát
triển ban đầu rất khả quan nếu xét đến khoảng dăm bảy năm trước, vấn đề xây dựng
nhà siêu cao tầng ở Việt Nam mới chỉ dừng lại ở mức các hội thảo khoa học.
Tuy nhiên thực tế triển
khai thực hiện quá trình đầu tư đã vấp phải không ít khó khăn do chúng ta chưa có
các bộ tiêu chuẩn, qui phạm nền tảng về thiết kế và thi công, trình độ thiết kế,
công nghệ và thi công còn non kém, thiếu kinh nghiệm. Vì vậy, việc đầu tư
nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ thi công nhà siêu cao tầng ở điều
kiện Việt Nam là một vấn đề cấp thiết, mang tính thực tiễn cao, cần thực hiện một
cách toàn diện và có chiều sâu.
1
2.Công nghệ vật liệu bê tông
Cùng với thời gian, bê
tông toàn khối đã chứng tỏ là một loại vật liệu xây dựng ưu việt, cho phép xây
dựng những công trình nổi bật và đặc sắc, và cho đến nay, tiềm năng ứng dụng của
bê tông toàn khối còn rất lớn. Rõ ràng, sự mở rộng lĩnh vực sử dụng bê tông
toàn khối trong xây dựng nhà siêu cao tầng tạo tiền đề cho việc đổi mới công
nghệ xây dựng, sản xuất và sử dụng các hệ ván khuôn hiện đại, cơ giới hóa quá
trình công nghệ sản xuất, vận chuyển, phân phối và đổ vữa bê tông, sử dụng phụ
gia cho bê tông.
Đáp ứng với những đòi
hỏi đặc biệt về kết cấu, khả năng chịu lực và điều kiện thi công, bê tông cho
xây dựng nhà cao tầng phải là bê tông chất lượng cao. Theo kinh nghiệm xây dựng
thế giới, bê tông xây dựng nhà siêu cao tầng phải có cường độ theo cấp độ bền từ
B40, tương đương M550. Trong những năm gần đây xu hướng sử dụng bê tông với cường
độ cao hơn, đến B70÷B90, như lõi khung chịu lực Petronas Twin Tower, HaNoi
Landmark Tower sử dụng bê tông C70 theo tiêu chuẩn ACI, tương đương M900;
Federasia Tower – Moscow City sử dụng bê tông B80÷90, trên M1000. Khi thiết kế
và thi công phần lõi khung chịu lực của nhà siêu cao tầng, cường độ bê tông giảm
dần tương ứng với chiều cao của công trình. Ví dụ công trình Jin Mao Building cường độ bê tông của các kết cấu
siêu cột (megacolumn) và tường vách ở các tầng dưới tương ứng là C80 và C60, giảm
đến các tầng trên cùng là C40. Công trình HaNoi Landmark
Tower cường độ bê tông
lõi vách cứng và cột giảm từ C70 đến C50; kết cấu sàn giảm từ C50 đến C35 theo
chiều cao công trình (hình 1)
Hình 1. Phân bố cường
độ bê tông lõi, khung chịu lực nhà siêu cao tầng theo dạng kết cấu và chiều cao
công trình - HaNoi Landmark Tower
Với vai trò là kết cấu
chịu lực nhà siêu cao tầng, bê tông toàn khối phải đạt được các yêu cầu rất
nghiêm ngặt về kỹ thuật và công nghệ, đó là bê tông chất lượng cao hay có thể gọi
là bê tông công nghệ cao (High Performance Concrete, HPC). Theo [5], bê tông chất
lượng cao là bê tông kết hợp nhiều tính chất vượt trội: tính thi công, cường độ,
độ bền sử dụng cao, chỉ số mài mòi và thẩm thấu thấp, các tính chất bảo vệ an
toàn đối với cốt thép, vững bền trước ăn mòn hóa học, vi sinh và ổn định về thể
tích.
Công nghệ bê tông chất
lượng cao phải dựa trên sự điều chỉnh cấu trúc tạo thành của bê tông ở tất cả
các giai đoạn của quá trình sản xuất. Phục vụ quá trình đó phải sử dụng xi măng
pooclăng cường độ cao hoặc chất kết dích hỗn hợp, tổ hợp các chất biến tính hóa
học (modification) làm biến thể cấu trúc và tính chất bê tông, các thành phần
và chất độn khoáng hoạt tính và các loại phụ gia. Trong quá trình sản xuất áp dụng
những công nghệ tiên tiến, đảm bảo sự chính xác và khoa học công tác cấp liệu,
trộn, sự đồng nhất hỗn hợp vữa, sự lèn chặt và đóng rắn bê tông.
Việc sản xuất và thi
công bê tông toàn khối trong xây dựng nhà siêu cao tầng phải đặc biệt linh hoạt,
phù hợp với từng kết cấu, giai đoạn thi công. Khi thi công phần ngầm, bê tông
đài móng là bê tông khối lớn. Ví dụ đài móng công trình HaNoi Landmark Tower
(tòa khách sạn): diện tích bề mặt 6.217 m2, cao 4m,
khối lượng bê tông 24.868m3; đài móng công trình
Lotte Center HaNoi: diện tích bề mặt 4.088 m2, chiều cao
lớn nhất 5,7m, khối lượng bê tông 17.000m3. Khi thi
công khối bê tông siêu lớn như vậy, đặc biệt trong điều kiện nắng nóng, phải
tính đến phương án dùng bê tông tỏa nhiệt thấp, hạn chế chênh lệch nhiệt độ giữa
các lớp bê tông, giữa bê tông và môi trường, dẫn đến nứt bê tông [3]. Để giải quyết
vấn đề này, công nghệ bê tông ít tỏa nhiệt chất lượng cao đã được áp dụng với
việc đưa vào thành phần bê tông phụ gia tro bay và tổ hợp các phụ gia khoáng,
siêu hóa dẻo và kéo dài thời gian ninh kết (bảng 1).
Bảng 1. Cấp phối vữa bê tông tự chảy, tỏa nhiệt thấp cho
đài móng công trình Lotte Center HaNoi
(cường độ C40, độ chảy 650mm) cho 1m3 vữa
XM+tro bay (kg)
|
Nước/(XM+tro bay)
|
Thành phần cấp phối
|
Phụ gia (%)
|
Xi măng PC40 (kg)
|
Tro bay (kg)
|
Nước (lít)
|
Cát (kg)
|
Đá (kg)
|
385
|
0,42
|
289
|
96
|
160
|
880
|
951
|
1,35
|
Khi thi công phần kết
cấu chịu lực trên các tầng cao, với yêu cầu về cường độ cao, thi công đổ bê
tông ở độ cao lớn, cấu kiện với mật độ cốt thép dày đặc, ngoài yêu cầu về cường
độ, vữa bê tông phải đảm bảo tính thi công, tự đầm và có độ chảy thích hợp (độ
xòe côn trên 600mm). Vấn đề được giải quyết bằng cách sử dụng tổ hợp chất biến
tính, phụ gia khoáng hoạt tính và phụ gia siêu hóa dẻo.
3.
Công nghệ vận chuyển, phân phối và rót vữa bê tông
Ngoài các yêu cầu kỹ
thuật về bê tông chất lượng và công nghệ cao, trong thi công nhà siêu cao tầng
vữa bê tông phải được chế trộn liên tục với khối lượng lớn, vận chuyển, phân phối
và đổ vào ván khuôn ở những vị trí xa theo phương ngang và rất cao theo phương
đứng, trong khi đó phải giữ ổn định độ linh động của vữa. Tất cả các các qui
trình công nghệ từ khi chế tạo vữa đến lúc đổ vào ván khuôn phải đặt dưới một
qui trình kiểm tra chất lượng chặt chẽ. Hai sơ đồ công nghệ cung cấp vữa bê
tông đến công trường thường được sử dụng là: 1) vận chuyển vữa bê tông bằng xe
bồn từ các trạm trộn cố định và 2) sử dụng trạm trộn lắp đặt trong mặt bằng
công trường. Phương án 2 rõ ràng là có nhiều ưu thế và hiệu quả hơn, cho phép
quản lý chặt chẽ chất lượng và điều chỉnh linh hoạt cấp phối vữa, hạn chế tối
đa sự sụt giảm độ linh động của vữa do rút ngắn được thời gian vận chuyển, giảm
số lượng xe vận chuyển, chủ động trong khâu tổ chức, tránh được các gián đoạn
thi công do điều kiện giao thông. Ví dụ khi đổ đài móng công trình HaNoi Landmark
Tower sử dụng trạm trộn tại
công trường với khoảng cách vận chuyển ngắn, huy động 26 xe vận chuyển. Trong
khi đó theo phương án thi công bê tông đài móng công trình Lotte Center HaNoi,
vữa bê tông được cấp từ 5 trạm trộn ngoài công trường, số lượng xe bồn vận chuyển
dự tính là 288 xe.
Bê tông từ xe bồn được
vận chuyển đến vị trí đổ bởi các máy bơm ô tô và máy bơm tĩnh thủy lực công suất
cao. Máy bơm ô tô cùng với hệ thống ống phân phối thủy lực đi kèm được sử dụng
đổ bê tông phần ngầm và các tầng dưới. Máy bơm tĩnh cùng với hệ thống ống bơm lắp
đặt sẵn, dùng để vận chuyển vữa bê tông dọc suốt chiều cao công trình. Phân phối
và rót vữa vào ván khuôn được thực hiện bởi hệ thống cần phân phối thủy lực, lắp
đặt trong lõi cứng của công trình và dịch chuyển theo chiều cao thi công (hình
3). Cần trục tháp có thể hỗ trợ công tác vận chuyển bê tông lên cao bằng thùng
đựng vữa. Để đảm bảo sự ổn định và liên tục của công tác vận chuyển, vữa bê
tông phải có độ chảy cao (thường ở mức trên 600mm) và công suất bơm phải đủ lớn.
Lựa chọn máy bơm căn cứ vào sự tổn thất áp lực theo chiều dài đường ống, đường
kính ống bơm, độ linh động của vữa, năng suất đổ yêu cầu và nhiều yếu tố khác.
Nhiều loại máy bơm thế hệ mới của các hãng SCHWING, ELBA,
PUTZMEISTER (Đức), JUNJIL (Hàn Quốc) với áp lực bơm >200bar, số lần đẩy phít
tông >17lần/phút, đường kính xi lanh bơm 200mm, công suất bơm bê tông tới
>100m3/h đều có thể đáp ứng được yêu cầu.
Hình 3. Lựa chọn thiết bị vận chuyển, phân phối và rót vữa
bê tông (máy bơm ô tô, máy bơm tĩnh, cần phân phối vữa bê tông thủy lực) theo
chiều cao thi công - công trình HaNoi
Landmark Tower
|
1
4.Công nghệ ván khuôn, cốt thép
Như đã biết, công tác
ván khuôn trong xây dựng bê tông toàn khối là đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng
quyết định đến công nghệ, tiến độ và giá thành xây dựng. Phân tích giá thành
xây dựng khung chịu lực nhà cao tầng trên thế giới cho thấy, chi phí cho công
tác ván khuôn chiếm khoảng 46,7% [4]. Vì vậy, hướng đến mục đích giảm giá thành
xây dựng, đảm bảo chất lượng và tiến độ thi công, đặc biệt trong xây dựng nhà
siêu cao tầng bê tông toàn khối, về lâu dài phải nghiên cứu, phát triển, chế tạo
và ứng dụng các hệ ván khuôn công nghệ cao, hiện đại.
Đối với những công
trình cao 20 – 30 tầng có thể sử dụng công nghệ ván khuôn định hình luân chuyển.
Tuy nhiên khi sử dụng hệ ván khuôn truyền thống này không cho phép đẩy nhanh tiến
độ thi công vượt quá 4 – 5 tầng/tháng. Do đó, đối với công trình siêu cao tầng,
đòi hỏi phải áp dụng các giải pháp công nghệ đặc thù và phải tính đến cả vấn đề
an toàn lao động trong thi công liên quan đến công tác ván khuôn. Ngoài ra,
trong xây dựng nhà siêu cao tầng, khi thi công với độ cao trên 100m, do tác động
của gió và sương mù, cần trục tháp không thể hoạt động với 100% công suất dự
tính, nhiều khi tần suất chỉ đạt 4 -5 ngày/tuần, trong thời gian đó vẫn phải đảm
bảo xây dựng xong một tầng, vì vậy cần phải tính đến các phương án sử dụng các
hệ ván khuôn tấm lớn, lắp dựng nhanh và hệ ván khuôn ván khuôn trượt dẫn động
thủy lực để giảm sự phụ thuộc vào cần trục tháp. Sử dụng hệ ván khuôn trượt thi
công kết cấu lõi vách bê tông toàn khối nhà cao tầng mang lại nhiều ưu thế và
hiệu quả: tiến độ nhanh; chất lượng đảm bảo; giảm công lao động lắp dựng, tháo
dỡ; độ an toàn cao và giảm sự phụ thuộc của tác động gió.
Tùy thuộc và điều kiện
thi công thực tế và mức độ đáp ứng của các nhà máy sản xuất, cung cấp ván khuôn
để lựa chọn công nghệ, loại ván khuôn phù hợp. Ở các công trình siêu cao tầng
đã xây dựng trên thế giới, người ta sử dụng rộng rãi các hệ ván khuôn hiện đại
được sản xuất bởi các hãng nổi tiếng như: MEVA, DALLI, HOE, THYSSEN (Đức),
FERI, OUTINORD, PASCHAL (Pháp), DOKA (Áo)... Các ván khuôn này chịu được áp lực
bê tông đến 120 kN/m2, hệ số luân chuyển rất
cao, có loại đạt đến 1000 lần, tất nhiên giá thành cũng rất cao, khoảng 200 -
400 USD/m2. Đối với từng loại kết cấu, căn cứ vào kích
thước, khối lượng, vị trí thi công, phương pháp đổ bê tông để lựa chọn các tổ hợp
phương án khác nhau, đảm bảo tính linh động, hiệu quả và an toàn trong thi công
(bảng 2).
Bảng 2. Tổ hợp phương án lựa chọn ván khuôn thi công kết cấu
bê tông toàn khối nhà siêu cao tầng
Loại kết cấu
|
Phương án lựa chọn
ván khuôn
|
Nguyên lý hoạt động
(lắp dựng)
|
Hãng sản xuất
|
Loại
|
Vật liệu
|
Kích thước tiêu chuẩn
tấm khuôn (dài,rôngxcao), m
|
Cột (megacolumn), tường,
vách
|
-tấm nhỏ định hình, tổ hợp
|
- thép
- nhôm
- kết hợp
|
(0,25÷1,3)x(0,9÷3,3)
|
tổ hợp (liên kết, chống, giằng)
|
Thyssen, Meva, Dalli,
HOE, Paschal, Doka, …
|
-tấm lớn định hình, tổ hợp
|
- thép
- nhôm
- kết hợp
|
(0,45÷5,3)x(0,6÷3,3)
|
tổ hợp (liên kết, chống, khung giằng)
|
Lõi cứng, vách lồng
thang máy
|
-ván khuôn leo
|
nt
|
0,25÷0,9x1,2÷3,0)
|
leo (liên kết bu lông với kết cấu)
|
Doka,
Peri,
HOE, …
|
-ván khuôn tự nâng
|
nt
|
nt
|
nâng (tháp nâng, kích thủy lực)
|
-ván khuôn trượt
|
nt
|
cao 1,2m
|
trượt (kích thủy lực)
|
Sàn
|
-tổ hợp từ 3 bộ phận cơ bản (gang form)
|
-cột: thép, nhôm
-dầm chữ H: nhôm, gỗ
-ván lát: gỗ
|
kích thước tấm khuôn theo t/k
|
tổ hợp
|
Thyssen, Meva,
Outinord, Dalli, …
|
-ván khuôn bàn (table form, sky deck)
|
-khung: thép, nhôm
-ván lát: gỗ
|
(1,2÷5,6)x(1,2÷5,6)
|
lắp dựng bằng cần trục tháp, tháo dỡ bằng hệ
kích chân
|
Paschal,
Peri, …
|
Công tác thi công cốt thép trong xây dựng nhà siêu cao tầng cũng phải đáp ứng
các yêu cầu kỹ thuật cao. Theo qui định, không được thi công nối cốt thép bằng
phương pháp hàn trong các kết cấu nhà cao tầng. Nhiều công nghệ nối buộc cốt
thép đảm bảo chất lượng, tạo nhiều không gian ở các nút khung thuận lợi cho việc
đổ bê tông đã được áp dụng trong thực tế. Cốt thép kết cấu chịu lực, các nút
khung có mật độ cốt thép cao nên áp dụng phương pháp nối bằng ống ren tiện trước
hoặc phương pháp nối bằng ống dập thủy lực. Cũng có thể áp dụng công nghệ mới nối
buộc cốt thép bằng súng chuyên dụng đẩy nhanh được tiến độ thi công và giảm
công lao động, đặc biệt đối với cốt thép vách, sàn. Hiện nay, trên trị trường
xây dựng đã sử dụng các loại súng buộc nối cốt thép của Nhật Bản, Đức sản xuất
như model RB của hãng MAX Co., model GUIDE của hang J.A.M,... Với thiết bị này
có thể nối cốt thép đường kính 6÷39mm với tốc độ 0,8÷1,7s/một mối buộc.
1
5.Công nghệ thiết bị vận chuyển lên cao
Cần trục tháp tự nâng,
liên kết với công trình từ phía ngoài, sử dụng hiệu quả khi xây dựng các công
trình dưới 40 tầng (loại 3) với chiều cao không quá 110 – 120m. Khi vượt quá độ
cao trên, tính đến các yếu tố: an toàn, độ cao và sức nâng, tầm với, giá thành,
thì việc sử dụng cần trục tháp tự nâng sẽ không khả thi. Vì vậy, khi xây dựng
nhà siêu cao tầng phải sử dụng cần trục tự leo, không có giới hạn về độ cao
nâng vật cẩu.
Cần trục tự leo được lắp
dựng trong lõi cứng – vách thang máy đã thi công, tầm cao hoạt động của cần trục
ở mỗi vị trí neo đạt tới 30 – 40m với bán kính phục vụ 50 – 55m. Trong khi thiết
kế và thi công kết cấu lõi, vách cứng cần có phương án để sẵn các chi tiết neo,
liên kết chuyên biệt phục vụ cho việc neo cần trục tháp và cần phân phối bê
tông về sau. Ban đầu, móng của cần trục tháp được xây dựng cùng lúc với đài
móng, ở vị trí đó, cần trục phục vụ việc xây dựng 5 – 6 tầng, tính từ tầm hầm đầu
tiên. Sau đó cần trục sẽ leo dần lên trong vách cứng đã đủ cường độ theo thiết
kế với chu kỳ 3 tầng/1lần leo theo chiều cao thi công (hình 4). Sau khi kết
thúc quá trình cẩu lắp, cần trục được tháo dỡ từng phần và hạ xuống bằng hệ tời
- ròng rọc.
Trong quá trình xây dựng
nhà siêu cao tầng, đặc biệt là trong giai đoạn hoàn thiện, song song với việc
giải quyết vấn đề vật chuyển vật liệu rời lên cao là việc vận chuyển người,
công nhân lên xuống mặt bằng thi công. Để phục vụ cả hai mục tiêu trên, người
ta sử dụng loại vận thăng đặc biệt có sức nâng đến 3 – 4 tấn, vận tốc nâng
100m/phút, kích thước lồng 1,5x4,5x2,5m, sức chứa đến 20 người. Số lượng và vị
trí lắp đặt vận thăng phụ thuộc vào hình dáng, kích thước mặt ngoài của nhà và
nhu cầu về khối lượng vận chuyển đáp ứng tổ chức thi công công trình [2]. Thông
thường vận thăng được lắp đặt sau khi xây dựng phần thô từ 5 – 10 tầng kế từ cốt
±0,000.
Hình 4. Sơ đồ vị trí lắp dựng cần trục tự leo thi công
nhà siêu cao tầng
|
Để
quá trình xây dựng đạt hiệu quả cao, tiến độ phải đảm bảo ở mức 4 – 5 tầng/tháng.
Việc này đòi hỏi không chỉ áp dụng công nghệ, thiết bị thi công hiện đại, các
phương tiện vận chuyển năng suất cao mà còn phải tổ chức thi thi công khoa học.
Các công tác thi công phần khung chịu lực, phần kết cấu bao che và phần hoàn
thiện phải được tổ chức thi công đồng thời. Gián đoạn khoảng cách thi công giữa
phần khung dầm sàn và phần kết cấu bao che có thể rút ngắn xuống còn 5 – 7 tầng
nhưng vẫn phải đảm bảo được không gian và an toàn thi công. Khi thi công trên
cao, tải trọng thường xuyên của gió ảnh hưởng nghiêm trọng đến an toàn lao động.
Với độ cao trên 50m, công tác thi công bên ngoài công trình bị ảnh hưởng bởi
các yếu tố tác động của luồng gió cục bộ, đổi hướng và luồng gió thốc. Đặc biệt
các luồng gió cục bộ theo phương ngang với vận tốc tương đối lớn ảnh hưởng trực
tiếp đến việc lắp đặt các kết cấu bao che có diện tích bề mặt lớn như panel tường,
cửa, vách kính bao che. Vì vậy, khi thi công các kết cấu bao che mặt ngoài công
trình phải lắp dựng hệ thống thang treo – sàn công tác di động, đáp ứng yêu cầu
thi công và phải áp dụng các biện pháp an toàn thi công trên cao một cách phù hợp,
nghiêm ngặt và chặt chẽ.
6. Kết luận
Quá trình phát triển
công nghệ xây dựng nhà siêu cao tầng trên thế giới sử dụng bê tông toàn khối
làm vật liệu cơ bản cho khung chịu lực đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm và đạt
được những thành tựu to lớn. Nền tảng của xây dựng nhà siêu cao tầng bao gồm tổ
hợp các giải pháp công nghệ và tổ chức hướng đến tối ưu hóa tiến độ thi công,
giảm công lao động trực tiếp và đảm bảo chất lượng cấu kiện, công trình ở mức
cao nhất theo thiết kế. Các dự án đầu tư xây dựng công trình nhà siêu cao tầng ở
Việt Nam
hiện nay và trong tương lai gần ngày càng nhiều và đó là xu hướng phát triển tất
yếu của ngành xây dựng trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa.
Để có thể áp dụng
thành công những kinh nghiệm, thành tựu về công nghệ thi công nhà siêu cao tầng
bê tông toàn khối của thế giới vào Việt Nam, trước mắt cần phải nghiên cứu, tổng
kết để làm chủ được các công nghệ cơ bản, phát triển và ứng dụng phù hợp với điều
kiện thi công trong nước. Về lâu dài cần tập trung vào các vấn đề ưu tiên sau:
-
Nghiên
cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ sản xuất,chế tạo bê tông chất lượng cao ở
mức công nghiệp phù hợp điều kiện Việt Nam, đáp ứng đủ nhu cầu xây dựng
trong nước;
-
Ứng
dụng thành thạo công nghệ ván khuôn hiện đại trong thi công các kết cấu bê tông
toàn khối. Ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở nghiên cứu, thiết kế và sản xuất ván
khuôn trong nước chất lượng cao;
-
Khuyến
khích nhập khẩu thiết bị thi công hiện đại, đào tạo vận hành, chuyển giao công
nghệ hướng đến làm chủ công nghệ thiết bị thi công.
Như vậy, việc ứng dụng
và phát triển được công nghệ thi công nhà siêu cao tầng sử dụng bê tông toàn khối
ở Việt Nam đứng trước những vấn đề rất nan giải, không chỉ liên quan đến vật liệu
mới, thiết bị, công nghệ, qui trình mới, mà quan trọng hơn nữa là văn hóa sản
xuất và tư duy mới. Sẽ có những thành tựu vượt bậc trong thời gian tới, vì
chúng ta hiểu rằng, chính xây dựng nhà siêu cao tầng là giải pháp hữu hiệu cho
phép ngành xây dựng trong nước vươn tới tầm cao mới của khoa học và công nghệ.
Tài liệu tham khảo
1
1.Trịnh Quốc Thắng (2005), Khoa học công
nghệ và tổ chức xây dựng, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
1
2.Trịnh Quốc Thắng (2006), Thiết kế tổng mặt
bằng và tổ chức công trường xây dựng, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
2
3.Nguyễn Tiến Đích (2000), Công tác bê tông
trong điều kiện nóng ẩm. Nxb Xây dựng, Hà Nội.
3
4.Анпилов С.М., (2005), Опалубочные системы
для монолитного строительства, Издательство АСВ, Москва.
4
5.Баженов Ю.М., Демьянова В.С., Калашников
В.И. (2006), Модифицированные высококачественные бетоны, Издательство
АСВ, Москва.
6.Жадановский Б.В., (2003), «Повышение технического уровня
производства бетонных работ», Механизация строительства, №11, Москва.