I. Phân định
rõ quyền hạn và trách nhiệm
Luật An toàn vệ sinh lao động (ATVSLĐ) 2015 (ban hành được hơn 1 năm và
chính thức có hiệu lực từ ngày 1.7.2016) đã quy định chi tiết quyền hạn và
trách nhiệm của NSDLĐ trong công tác ATVSLĐ. Ngoại trừ các nghĩa vụ phải đóng
bảo hiểm TNLĐ, bệnh nghề nghiệp cho người lao động (NLĐ); thực hiện khai báo,
điều tra thống kê, báo cáo TNLĐ, bệnh nghề nghiệp, sự cố kỹ thuật gây mất
ATVSLĐ, chấp hành các quyết định của thanh tra lao động, hầu hết các quy định
còn lại đều là những trách nhiệm liên quan đến phòng ngừa TNLĐ, bệnh nghề
nghiệp đối với NLĐ. Cụ thể, theo Khoản 2, Điều 7 của Luật, NSDLĐ có 7 nghĩa vụ
cụ thể.
Trường hợp doanh nghiệp tự huấn
luyện ATVSLĐ cho các đối tượng quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 14 của
Luật thì phải đáp ứng điều kiện hoạt động như đối với tổ chức huấn luyện
ATVSLĐ. NSDLĐ cũng phải tự tổ chức huấn luyện và chịu trách nhiệm về chất lượng
huấn luyện ATVSLĐ cho các đối tượng là người học nghề, tập nghề, người thử
việc, trước khi tuyển dụng hoặc bố trí làm việc; đồng thời định kỳ huấn luyện
lại nhằm trang bị đủ kiến thức, kỹ năng cần thiết về bảo đảm ATVSLĐ phù hợp với
vị trí công việc được giao. Các công việc huấn luyện này bảo đảm phải phù hợp
với đặc điểm, tính chất từng ngành nghề, vị trí công việc, quy mô lao động. Căn
cứ vào điều kiện sản xuất kinh doanh, NSDLĐ chủ động tổ chức huấn luyện riêng
về ATVSLĐ hoặc kết hợp huấn luyện về phòng cháy, chữa cháy hoặc những nội dung
huấn luyện khác được pháp luật chuyên ngành quy định.Trước hết, NSDLĐ có nghĩa vụ phải thông tin, tuyên truyền, giáo dục về
ATVSLĐ, các yếu tố nguy hiểm, có hại và các biện pháp bảo đảm ATVSLĐ tại nơi
làm việc cho NLĐ. Đây là sự trang bị kiến thức cho NLĐ về những nguy cơ gây mất
an toàn vệ sinh tác động đến sức khỏe cũng như công bố các biện pháp doanh
nghiệp sẽ triển khai để hạn chế nguy cơ này trong suốt quá trình hoạt động;
giúp cho NLĐ hiểu, thực hiện các biện pháp tự bảo vệ sức khỏe và tham gia giám
sát việc triển khai các giải pháp an toàn của NSDLĐ. NSDLĐ có nghĩa vụ huấn
luyện ATLĐ cho các đối tượng là người quản lý phụ trách ATVSLĐ, người làm công
tác an toàn lao động, y tế, an toàn, vệ sinh viên trong cơ sở sản xuất kinh
doanh; có trách nhiệm cập nhật, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho các đối tượng
này khi có sự thay đổi chính sách, pháp luật hoặc khoa học, công nghệ về
ATVSLĐ; có trách nhiệm tổ chức huấn luyện cho NLĐ có hợp đồng và không có hợp
đồng làm công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về ATVSLĐ, cấp thẻ an toàn trước khi
bố trí làm công việc này.
NSDLĐ còn có trách nhiệm thường
xuyên phối hợp với Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở để tổ chức cho NLĐ tham gia
các hoạt động cải thiện điều kiện lao động, xây dựng văn hóa an toàn lao động
tại nơi làm việc…NSDLĐ có trách nhiệm xây dựng nội quy, quy trình và các biện
pháp bảo đảm ATVSLĐ tại nơi làm việc phù hợp với các căn cứ pháp luật, tiêu
chuẩn, kỹ thuật quốc gia, quy chuẩn địa phương về lĩnh vực này (Điều 15). Theo
Điều 16, NSDLĐ phải bảo đảm nơi làm việc đạt các yêu cầu về không gian, độ
thoáng, bụi, hơi, khí độc, phóng xạ, điện từ trường, nóng, ẩm, ồn, rung, các
yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại khác; có trách nhiệm bảo đảm máy, thiết bị, vật
tư, chất sử dụng, vận hành, bảo trì, bảo quản tại nơi làm việc theo quy chuẩn
kỹ thuật về ATVSLĐ hoặc đạt các tiêu chuẩn về ATVSLĐ đã được công bố, áp dụng
và theo nội dung, quy trình bảo đảm ATVSLĐ tại nơi làm việc; có trách nhiệm
trang bị đầy đủ cho NLĐ các phương tiện bảo vệ cá nhân trước khi thực hiện công
việc có yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại; trang bị các thiết bị ATVSLĐ tại nơi
làm việc; định kỳ kiểm tra, bảo dưỡng máy, thiết bị vật tư, chất, nhà xưởng,
kho tàng. Đồng thời có biển cảnh báo, bảng chỉ dẫn bằng tiếng Việt và ngôn ngữ
phổ biến của NLĐ về ATVSLĐ đối với máy, thiết bị, vật tư và các chất có yêu cầu
nghiêm ngặt về ATVSLĐ tại nơi lao động, nơi lưu giữ, bảo quản, sử dụng và đặt ở
vị trí dễ đọc, dễ thấy. Có trách nhiệm xây dựng, ban hành kế hoạch xử lý sự cố,
ứng cứu khẩn cấp tại nơi làm việc; tổ chức xử lý sự cố, ứng cứu khẩn cấp, lực
lượng ứng cứu và báo cáo kịp thời với người có trách nhiệm khi phát hiện nguy
cơ hoặc khi xảy ra TNLĐ tại nơi làm việc vượt ra khỏi khả năng kiểm soát của
đơn vị…
II. Biết mà không thực hiện!
Phân tích mới đây của Cục An
toàn lao động (Bộ LĐTBXH) đến ngày 15.2.2016, Bộ LĐTBXH nhận từ 238 biên bản
điều tra TNLĐ chết người (trong tổng số 629 vụ TNLĐ chết người năm 2015 xảy ra
trên toàn quốc) cho thấy: Trong khi nguyên nhân để xảy ra TNLĐ chết người do
lỗi của NLĐ chiếm 18,9% thì lỗi do NSDLĐ lại chiếm đến 52,8%. Cụ thể: NSDLĐ
không xây dựng quy trình, biện pháp làm việc an toàn chiếm 25,2% tổng số vụ;
thiết bị không đảm bảo an toàn lao động chiếm 14,3% tổng số vụ; NSDLĐ không
huấn luyện ATLĐ cho NLĐ chiếm 9,7% tổng số vụ; do tổ chức lao động và điều kiện
lao động chiếm 2,6% tổng số vụ; do NSDLĐ không trang bị phương tiện bảo vệ cá
nhân trong lao động chiếm 1%.
Thực tế này cũng đã được minh
chứng khá rõ qua cuộc kiểm tra thường niên về công tác ATVSLĐ năm 2016 tại một
số DN đóng trên địa bàn TP do Sở LĐTBXH Hà Nội đang tiến hành cho thấy, hầu hết
các DN được kiểm tra đều vi phạm các quy định trên, dù những lần kiểm tra trước
đó đã được cơ quan chức năng chuyên ngành cảnh báo, nhắc nhở hay lập biên bản.
Đơn cử, theo ông Bạch Quốc Việt - Trưởng phòng An toàn lao động (Sở LĐTBXH Hà
Nội), dù Luật ATVSLĐ quy định NSDLĐ phải có trách nhiệm tổ chức huấn luyện
ATVSLĐ cho NLĐ, phân loại lao động và cấp thẻ ATLĐ trước khi bố trí công việc
cụ thể. Thế nhưng qua kiểm tra, hầu hết các DN đều không thực hiện nghiêm túc,
hoặc làm có tính chất đối phó với cơ quan chức năng khi trình thẻ ATLĐ đã hết
hạn, hay số lượng người được tập huấn rất ít so với thực tế số lao động đang
làm việc tại đơn vị. Thậm chí, hầu hết NSDLĐ còn không có chứng chỉ huấn luyện
về ATVSLĐ. Những lỗi này theo nghị định hướng dẫn mức xử phạt hành chính lên từ
15-35 triệu đồng/ lỗi.
Trong Luật đã quy định tại các
vị trí sản xuất phải có biển, bảng hướng dẫn nội quy ATLĐ và xử lý sự cố treo ở
nơi dễ thấy, dễ nhìn, hay việc bố trí các thiết bị chữa cháy ở nơi có nguy cơ,
nhưng hầu hết các DN được kiểm tra đều bị xử phạt hành chính khi không thực
hiện hoặc làm có tính chất chiếu lệ. Đặc biệt, công tác khai báo, kiểm định
những thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về ATLĐ như: Nồi hơi, cẩu trục,
vận thăng, tủ bảng điện, bể chứa gas… của các DN thường không đầy đủ hoặc không
kiểm tra định kỳ. “Đây thực sự là những mối nguy tiềm ẩn mất ATLĐ rất lớn. Trên
thực tế đã có nhiều bài học đau lòng đã xảy ra”- ông Việt nhấn mạnh.
Nhìn nhận thẳng vào vấn đề, ông
Bạch Quốc Việt khẳng định: “Luật và các văn bản dưới luật liên quan đến công
tác ATVSLĐ đã quy định và có hướng dẫn chi tiết và đầy đủ, bản thân DN cũng
biết rõ các quy định này, nhưng để nó đi vào thực tiễn đời sống DN, đảm bảo an
toàn cho NLĐ tại nơi làm việc, thì phụ thuộc rất nhiều vào lương tâm và trách
nhiệm của NSDLĐ. Ở đâu, NSDLĐ quan tâm thực sự đến công tác này, thì công tác
ATLĐ được đảm bảo; còn nếu NSDLĐ đối phó, thì nguy cơ tiềm ẩn mất ATLĐ là khó
tránh khỏi và thiệt hại vẫn thuộc về DN và với phân định rõ trách nhiệm theo
luật, thì NSDLĐ khó mà chối bỏ được trách nhiệm của mình”.