Ông Hà Tất Thắng, Cục trưởng
Cục An toàn lao
động cho biết, Luật ATVSLĐ có những điểm mới: So với phạm vi
điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Bộ luật Lao động năm 2012, Luật lần này quy
định rộng hơn, bao quát và cụ thể hơn các hoạt động về ATVSLĐ. Phạm vi điều
chỉnh bao gồm các quy định về tổ chức quản lý công tác ATVSLĐ trong cơ sở sản
xuất, kinh doanh, chính sách, chế độ đối với người bị TNLĐ, BNN... Công tác
ATVSLĐ liên quan đến tất cả các tổ chức, cá nhân có hoạt động lao động, sản
xuất, cụ thể: Về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng: mở rộng phạm vi điều
chỉnh đối với tất cả các tổ chức, cá nhân có liên quan đến ATVSLĐ; mở rộng đối
tượng áp dụng đối với người lao động làm việc không theo hợp đồng lao động; Quy
định cụ thể quyền, nghĩa vụ về ATVSLĐ của người sử dụng lao động, người lao
động, người làm công tác ATVSLĐ; người làm công tác y tế, an toàn vệ sinh viên (tại Bộ
luật Lao động, điều 138 chỉ quy định cụ thể nghĩa vụ của người lao động, người
sử dụng lao động về ATVSLĐ).
Lớp tập huấn ATVSLĐ tại Cty cổ phần đầu tư xây dựng Vinaconex
Bên cạnh đó, Luật cũng bổ
sung 2 chính sách mới
về bảo hiểm TNLĐ, BNN cho người lao động làm việc theo hợp đồng lao động: hỗ
trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho người bị TNLĐ, BNN khi trở lại làm việc và chính
sách hỗ trợ các hoạt động phòng ngừa, chia sẻ rủi ro về TNLĐ, BNN; ghi rõ
mức đóng bảo hiểm TNLĐ,
BNN linh hoạt, tối đa 1%; chế độ bảo hiểm về BNN cho người mắc bệnh sau khi đã
nghỉ hưu, hoặc chuyển công việc khác; bảo vệ quyền lợi cho người lao động khi
giao kết nhiều hợp đồng lao động bị TNLĐ; bảo vệ quyền, lợi ích cho người lao
động khi nhận công việc về nhà làm. Luật cũng đã chú trọng đổi mới công tác
huấn luyện ATVSLĐ, hoạt động kiểm định; hoạt động thống kê, báo cáo, điều tra
về TNLĐ, BNN; đánh giá rủi ro tại nơi làm việc và tự kiểm tra về ATVSLĐ.
Luật ATVSLĐ cũng đã quy định cụ
thể trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, quyền
và trách nhiệm của tổ chức công đoàn, của Hội nông dân Việt Nam
trong bảo đảm ATVSLĐ; quy định hội đồng ATVSLĐ cấp quốc gia, cấp tỉnh, doanh nghiệp và cơ
chế tham vấn, đối thoại, nhằm bảo đảm ATVSLĐ; phân định thẩm quyền quản lý nhà
nước về ATVSLĐ giữa Bộ LĐ-TB&XH với các bộ, ngành khác để nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Ngoài ra, Luật còn thiết lập chặt chẽ hơn
hệ thống kiểm soát rủi ro ở các cấp độ: nơi làm việc, doanh nghiệp, các cơ quan
quản lý nhà nước và các tổ chức, cá nhân có liên quan. Về cơ bản, việc thiết
lập và vận hành hệ thống kiểm soát rủi ro ở các cấp độ khác nhau sẽ hạn chế
TNLĐ, BNN, tạo môi trường làm việc, điều kiện làm việc an toàn cho người lao
động.
Ông Trần Thanh Hải, Phó Chủ tịch
thường trực Tổng LĐLĐ Việt Nam
cho rằng: “Luật đã hướng đến mục tiêu phòng ngừa, hạn chế TNLĐ với nhiều quy
định cụ thể. Trong đó, người lao động có quyền yêu cầu người sử dụng lao động
có trách nhiệm bảo đảm điều kiện làm việc an toàn, vệ sinh trong quá trình lao
động tại nơi làm việc; được cung cấp thông tin đầy đủ về các yếu tố nguy hiểm,
yếu tố có hại tại nơi làm việc và những biện pháp phòng, chống; được đào tạo,
huấn luyện về ATVSLĐ; được thực hiện chế độ bảo hộ lao động, chăm sóc sức khỏe, khám phát hiện BNN; được
đóng bảo hiểm TNLĐ...”
Theo quy định, người lao động có
quyền từ chối làm công việc hoặc rời bỏ nơi làm việc mà vẫn được trả đủ tiền lương và không
bị coi là vi phạm kỷ
luật lao động khi thấy rõ có nguy cơ xảy ra TNLĐ và phải báo ngay cho người
quản lý trực tiếp để có phương án xử lý. Người lao động chỉ tiếp tục làm việc
khi người quản lý trực tiếp và người phụ trách công tác ATVSLĐ đã khắc phục các
nguy cơ để bảo đảm ATVSLĐ. Đồng thời, đối với các đơn vị sử dụng lao động vi
phạm quy định về ATVSLĐ, luật cũng có các quy định và chế tài xử lý rõ ràng.
Qua đó, các đơn vị ý thức hơn trong việc đảm bảo ATVSLĐ.
Ông Bùi Sỹ Lợi, Phó Chủ nhiệm Ủy
ban về Các vấn đề xã hội của Quốc hội, lưu ý: “Người lao động trong khu vực chính
thức được bảo đảm tốt, còn lao động không trong khu vực hợp đồng lao động lại
chưa được đảm bảo. Do vậy, cần mở rộng đối tượng áp dụng, đối với người lao
động thuộc khu vực không có quan hệ hợp đồng lao động là cần thiết, tạo nên
sự bình đẳng giữa
các loại hình lao động...”
Được biết, để hướng dẫn triển khai
Luật ATVSLĐ, trong năm 2015, Bộ LĐ-TB&XH đã giao Cục An toàn lao động xây
dựng 4 Nghị định và 11 Thông tư trình Chính phủ ban hành. Thời gian qua, Cục
cũng đã phối hợp với các địa phương tổ chức các hội nghị giới thiệu những điểm
mới liên quan đến công tác ATVSLĐ tại cơ sở, đồng thời thảo luận một số vấn đề
liên quan để xây dựng các văn bản hướng dẫn triển khai Luật cho phù hợp.
Với sự quan tâm của Chính phủ, sự
phối hợp triển khai chặt chẽ của các bộ, ngành Trung ương và địa phương, hy
vọng Luật ATVSLĐ sẽ đi vào cuộc sống, góp phần giảm thiểu TNLĐ, BNN, tạo môi
trường làm việc an toàn cho người lao động.